Dự kiến phát hành 01/06/2023
Tác phẩm là công trình nghiên cứu của tác giả về các lý tưởng giáo dục trước, trong và sau thời kỳ của Aristotle, cho thấy những điều kiện xã hội trong lịch sử đã hình thành nên những lý thuyết giáo dục của từng thời đại như thế nào. Nhờ đó, người đọc có thể hiểu thêm về những gì trong quá khứ đã ảnh hưởng lên tư tưởng của Aristotle, cũng như những lý thuyết sau này chịu tác động như thế nào từ những tư tưởng của ông. Ba trụ cột trong triết học cổ đại cũng được nhắc tới và phân tích khá rõ ràng trên khía cạnh tư tưởng và lý thuyết giáo dục. Từ việc phân tích các đặc tính xã hội qua từng thời kỳ, ở từng thành bang, mối liên hệ giữa Nhà nước và thế chế đối với yêu cầu đặc ra cho giáo dục, tác giả đã chỉ ra những đặc điểm của những lý thuyết giáo dục nổi bật tương ứng với từng nhân vật tiêu biểu của từng thời kỳ. Nếu như những lý thuyết của Xenophon, Socrates hay Plato kéo con người ra khỏi thế giới tự nhiên và lịch sử, thì Aristotle lại hướng con người trở về với thế giới đó, biết bản thân mình thông qua tự nhiên, nỗ lực cố gắng vươn tới Toàn Thiện. Mặc dù lý thuyết của Aristole vẫn còn một số hạn chế như vẫn còn tồn tại sự phân chia tầng lớp và ít nhiều mang tính utopia bất biên như các lý tưởng của những người trước đó, nhưng những nguyên lý giáo dục mà ông đặt ra có giá trị cao và trường tồn với thời gian, đáng để những nhà lý thuyết giáo dục nghiên cứu và xem xét ở mọi thời kỳ, như mối tương quan giữa rèn luyện thân thể và đào tạo tâm trí, tầm quan trọng của việc thực hành trong học tập, tính nghiêm túc trong nghiên cứu và học tập ở bậc cao.
Mục lục:
LỜI GIỚI THIỆU
QUYỂN I: GIỚI THIỆU
Chương 1: Đặc tính và lý tưởng của nền giáo dục
Hy Lạp
Chương 2: Các ngành học của nền giáo dục Hy Lạp
Chương 3: Các điều kiện của giáo dục
Chương 4: Các đối tượng của giáo dục
Chương 5: Giáo dục khi chịu tác động bởi thời gian,
địa điểm và hoàn cảnh
Chương 6: Các thời kỳ của giáo dục Hy Lạp
QUYỂN II: THỜI KỲ HELLENIC (776 – 338 TCN)
PHẦN I: “GIÁO DỤC KIỂU CŨ” (776 – 480 TCN)
Chương 1: Giáo dục cho lao động và nhàn rỗi
Chương 2: Nền giáo dục Æolia hay Thebes
Chương 3: Nền giáo dục Doria hay Sparta
Chương 4: Pythagoras
Chương 5: Nền giáo dục Ionia hay Athens
PHẦN II: “GIÁO DỤC KIỂU MỚI” (480 – 338 TCN)
Chương 1: Giáo dục cho lao động và nhàn rỗi
Chương 2: Xenophon
Chương 3: Plato
QUYỂN III: ARISTOTLE (384-322 TCN)
Chương 1: Aristotle – Cuộc đời và sự nghiệp
Chương 2: Triết học của Aristotle
Chương 3: Lý thuyết về nhà nước của Aristotle
Chương 4: Nhà nước Sư phạm của Aristotle
Chương 5: Giáo dục trong bảy năm đầu đời
Chương 6: Từ bảy tuổi đến hai mươi mốt tuổi
Chương 7: Giáo dục sau tuổi hai mươi mốt
QUYỂN IV: THỜI KỲ HELLENISTIC (338TCN – 313)
Chương 1: Từ đời sống dân tộc đến đời sống côngdân thế giới
Chương 2: Quintilian và giáo dục biện luận
Chương 3: Plotinus và giáo dục triết học
Chương 4: Kết luậnTrích đoạn:
“Một thể chế sẽ lụi tàn khi nó từ bỏ nguyên lý thành lập và phát triển của nó.”
…
“Thực tế là, sau khi nghiên cứu Heraclitus, Socrates đã bị thuyết phục rằng lý do con người rơi vào sai lầm là do họ không hiểu về bản thân, hay tư duy của chính họ, bởi vì cái họ gọi là suy nghĩ vốn chỉ đơn thuần là các quan điểm, chỉ đơn thuần là những mảnh vụn của tư duy. Ông kết luận rằng, nếu con người muốn được cứu rỗi khỏi sai lầm, về mặt trí thức lẫn đạo đức, thì họ phải có khả năng tư duy toàn diện.”
…
“Plato đã mơ; Aristotle đã nghĩ. — Alfred de Musset.”
…
“Tư tưởng của Aristotle khác với tư tưởng của Plato cả về phương pháp lẫn kết quả. Plato vốn được dạy theo trường phái Pythagoras, Parmenides, Heraclitus và Socrates. Một cách tự nhiên, ông đã tìm kiếm chân lý trong vùng vượt trên các giác quan của tâm trí, và nghĩ rằng mình đã tìm thấy nó trong những ý niệm có thể đạt được bằng quá trình biện chứng từ trong ý thức cá nhân. Do đó, ông đã đưa ra một học thuyết, mặc dù mục đích bề ngoài của nó là củng cố các mối liên kết trong xã hội, nhưng trên thực tế, nó lại có xu hướng rút hoàn toàn con người ra khỏi xã hội và làm gia tăng chính chủ nghĩa cá nhân, là thứ mà nó dự định chữa trị.”
…
“Thật vậy, ở khắp mọi nơi, ông bắt đầu cuộc tìm kiếm chân lý thực tế bằng cách xem xét nhận thức quan trọng trong lịch sử. Bằng quá trình quy nạp, ông đã khám phá, khái quát nội dung của nó, từ đó ông hướng những thứ này về với tự nhiên, rồi bằng bước quy nạp thứ hai để sửa chữa, hoàn thiện, làm cho chúng nên hài hòa. Chúng ta có thể diễn đạt điều này bằng ngôn ngữ hiện đại, bằng cách nói rằng toàn bộ nỗ lực của ông là để chỉnh sửa và bổ sung nhận thức chưa hoàn hảo của con người, thông qua việc liên tục kêu gọi nhận thức linh thiêng, vốn được biểu hiện trong thế giới. Lỗi của các nhà nghiên cứu hiện đại là khi chỉ sử dụng một nửa của phương pháp quy nạp là tính khách quan, bỏ qua hoàn toàn tính chủ quan, hay nói cách khác, giống như Plato, chỉ áp dụng nó cho nhận thức cá nhân. Do đó dẫn tới các kết quả rất khác nhau mà chúng ta vẫn gặp trong rất nhiều ngành khoa học, Chính trị, Tâm lý học, v.v… Do đó, thực tế là rất nhiều ngành khoa học, thay vì điều chỉnh, mở rộng và làm hài hòa nhận thức phổ thông, lại đứng hoàn toàn tách biệt với nó, thậm chí còn đối lập trực tiếp với nó.”
…
“Nếu bây giờ chúng ta tự hỏi tư duy tiềm tàng nào đã định hình lý thuyết quy nạp của Aristotle, Thế giới quan (Weltanschauung) của ông là gì, chúng ta sẽ thấy nó như thế này: Trí tuệ linh thiêng tự bộc lộ một cách chủ quan trong một quá trình lịch sử bên trong nhận thức con người, và một cách khách quan trong một quá trình tự nhiên ở thế giới bên ngoài. Chân lý đối với con người là sự hài hòa của hai phát hiện. Từ đó trực tiếp cho thấy nhà khoa học phải tính đến cả hai yếu tố một cách không thiên vị. Vì vậy, chẳng hạn như người đó tìm thấy các vị thần trong nhận thức lịch sử, và cũng tìm thấy các quy luật hay các lực trong tự nhiên, anh ta không có quyền giống như nhà thần học, hợp nhất các vị thần với các quy luật. Anh cũng không giống như nhà khoa học tự nhiên, vốn thay thế các vị thần bằng các quy luật. Anh ta phải giữ lại cả hai cho đến khi có thể làm cho chúng hòa hợp với nhau. Chỉ khi đó anh ta mới hiểu biết được một trong hai.”