Bạn đang tìm sản phẩm gì?
Đăng nhập tài khoản
Nhập email và mật khẩu của bạn:
Khách hàng mới? Tạo tài khoản
Quên mật khẩu?
Khôi phục mật khẩu
Nhập email của bạn:
Bạn đã nhớ mật khẩu?
Giỏ hàng
TỔNG TIỀN: | 0₫ |
Xem giỏ hàng |
- Sách Khai Tâm phát hành
- Sách mới tuyển chọn
-
Sách theo tác giả
- Tâm linh - Tôn giáo
- Khoa học
- Triết học
- Kinh tế - Chính trị
- Địa lý - Phong thủy
- Lịch sử
- Văn hóa - Nghệ thuật
- Văn học
- Tâm lý - Nghệ thuật sống
- Y học - Thực dưỡng
- Giáo dục - Gia đình
- Kỹ năng thường thức
- Sách cũ - Sách lỗi
- Văn hóa phẩm tuyển chọn
- Quà tặng tinh thần
- Xem thêm
- Quay về
- Xem tất cả "Sách theo tác giả"
- -George Ohsawa
- -Krishnamurti
- -Osho
- -Kahlil Gibran
- -Thích Nhất Hạnh
- -Thích Tuệ Sỹ
- -Lê Mạnh Thát
- -Thích Tuyên Hóa
- -Đại sư Tinh Vân
- -Bùi Giáng
- -Phạm Công Thiện
- -Kim Định
- -Nguyễn Duy Cần
- -Nguyễn Hiến Lê
- -Vương Hồng Sển
- -Sơn Nam
- -Hồ Biểu Chánh
- -Toan Ánh
- -Nguyên Phong
- -Nguyễn Tường Bách
- -Đỗ Hồng Ngọc
- -Trịnh Xuân Thuận
- -Tô Hoài
- -Nguyễn Nhật Ánh
- Quay về
- Xem tất cả "Kinh tế - Chính trị"
- -Quản trị & Lãnh đạo
- -Tài chính & Kế toán
- -Tiếp thị & Bán hàng
- -Kỹ năng làm việc
- -Thành tựu kinh doanh
- -Nghiên cứu & Phân tích
-
Đảm bảo chất lượng
-
Miễn phí vận chuyển
-
Mở hộp kiểm tra nhận hàng
Bạn đang tìm sản phẩm gì?
- Trang chủ
- Sách Khai Tâm phát hành
- Combo Khám Phá Tâm Thức - 2 cuốn, giá sốc chỉ 138k!

OFF
Combo Khám Phá Tâm Thức - 2 cuốn, giá sốc chỉ 138k!
Tình trạng: Còn hàng Thương hiệu: Khai Tâm- Số trang: 716
- Hình thức bìa: Bìa mềm
- Dịch giả: Thích Nữ Trí Hải
- Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki
- Dịch giả: Như Hạnh
- Trọng lượng: 900
- Tác giả: Erich Fromm
- Công ty phát hành: Khai Tâm






THƯỜNG ĐƯỢC MUA CÙNG
Mô tả sản phẩm
1. Tâm phân học và Tôn giáo
2. Nghiên cứu Kinh Lăng-già
1. Tâm phân học và Tôn giáo
Khoa Tâm phân học sau Freud đã chứng kiến một cảnh “trăm hoa đua nở” vô cùng phong phú. Những trường phái tâm phân, nhằm khai thác các thành quả và chiều hướng cốt yếu trong tư tưởng của Freud, lần lượt xuất hiện và xác định vị trí của mình tuỳ như lập trường của những trường phái ấy thuận hợp hay chống đối với lập trường của người khai sinh ra khoa học này.
Erich Fromm, tác giả người Đức lai Mỹ của tập sách, chiếm một địa vị độc đáo trong trường phái tâm phân mệnh danh là Tâm phân học hiện sinh hay nhân bản. Như thế không phải vì ông là người đầu tiên đã nêu lên nghi vấn về tính cách phổ quát của phức cảm Oedipe, cũng không phải vì ông đã đưa ra ánh sáng mối liên hệ giữa cá nhân với xã hội và nhiên giới để điều chỉnh lại quan niệm cá nhân cô lập của Freud, nhưng chính vì ông đã nhấn mạnh trên quyền lực vô song của con người trong việc giải đáp những vấn đề chính yếu do cuộc hiện sinh đặt ra. Trung tâm điểm tư tưởng Fromm là mối bận tâm tối hậu của con người, sao cho mình có thể sống đích thực với chính mình, sống trong sự giải thoát toàn diện khỏi những áp chế của bất cứ thế lực thần quyền hay nhân quyền nào, và sống trong sự triển nở toàn diện những khả năng vô tận của mình. Chủ đề ấy xoáy sâu và tỏa rộng trong tất cả những tác phẩm của ông: Escape from Freedom (1941), Man for Himself (1947), Psychoanalysis and Religion (1950), và mới đây, trong cuốn The same society.
Qua tác phẩm Tâm phân học và Tôn giáo, Fromm muốn nối tiếp và làm sinh động lại cái truyền thống đã khởi nguyên từ thời Platon, trong đó nhà tâm lý học hay nói hẹp hơn, nhà tâm phân là một “Y sĩ của Linh hồn”. Tiền đề nền tảng của Fromm: Người ta không thể xâm phạm đến sự nguyên vẹn tri thức và tinh thần mà không phương hại đến toàn thể nhân cách, đã được sử dụng như một viên đá thử vàng. Sau cuộc thử lửa, những tôn giáo đặt nền trên thần quyền đều bị khước từ vì vĩnh viễn trói buộc con người vào tinh thần nô lệ. Chỉ những tôn giáo nhân bản, những tôn giáo xác quyết và đề cao sức mạnh tinh thần đích thực của con người trong nhiệm vụ giải phóng cho chính mình (trong đó Phật giáo là hình ảnh rực rỡ nhất vì đã đáp ứng đúng những yêu sách nói trên) mới được chấp nhận. Những phân tích về tâm trạng “tôn thờ thần tượng” của Fromm xui ta nhớ đến khuôn mặt yêu dấu của Simone Weil khi cô biện giải về quan niệm thiện ác.
Đây là một trong những tác phẩm hiếm hoi đề cập đến một vấn đề rất táo bạo và mới mẻ, với một tinh thần không bị che phủ vì thiên kiến. Vì thế, nếu trên bình diện thực nghiệm, chúng ta có thể tìm ra các chứng lý vạch rõ những bất toàn của đề án Fromm đưa ra, thì trái lại, xét về phương diện những đóng góp mới cho khoa Tâm phân học, lập trường của Fromm phải được chiêm nghiệm một cách sâu xa và nghiêm chỉnh.
- Ban Tu thư Vạn Hạnh, trong lần in bản dịch Việt ngữ năm 1968
Lời tựa của tác giả
Khi viết một lời tựa mới cho một quyển sách đã được xuất bản cách đây mười sáu năm, trước tiên tác giả phải tự hỏi, liệu mình có muốn sửa lại các luận điểm quan trọng mà bây giờ xem chừng đã không còn đúng nữa không. Trong suốt những năm qua, do các ý tưởng của tôi vẫn thay đổi liên tục, và tôi mong là thay đổi theo chiều hướng tích cực, nên tôi đã sẵn sàng đọc lại quyển sách này để tìm ra vài lời lẽ mà tôi có thể muốn thay đổi. Tôi đã rất ngạc nhiên khi thấy mình không cần phải thay đổi bất cứ nội dung nào trong các luận điểm chính yếu, và dĩ nhiên cũng không phản đối việc in lại quyển sách này.
Câu hỏi tiếp theo tác giả cần tự hỏi là liệu mình có nên bàn thêm những nội dung đã viết nhiều năm về trước không. Câu trả lời chắc chắn là có. Trong bản in trước, tôi đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phân biệt khái niệm tư tưởng tôn giáo với kinh nghiệm nhân bản ẩn dưới đó. Nhưng tôi lại chưa làm rõ thế nào mới được gọi là “kinh nghiệm tôn giáo”, dù cho khái niệm tư tưởng tôn giáo có hàm ý bất cứ điều gì. Giả như lúc này tôi phải viết lại quyển sách này, tôi hẳn sẽ thêm chương “Vài điển hình về kinh nghiệm tôn giáo”. Nhưng đây chưa phải lúc. Tuy nhiên, có điểm này tôi cần phải nhắc đến: đối với người có tôn giáo, dù y là “tín hữu” hay không, thì cuộc sống mới chính là vấn đề; nội chuyện được sinh ra trong cõi đời này thôi đã đặt ra một câu hỏi mà con người buộc phải tìm cho ra câu trả lời. Do đó, nhiệm vụ trọng yếu trong đời y là tìm thấy câu trả lời thỏa đáp câu hỏi ấy; không phải tìm ra trong tư tưởng mà thôi, mà phải trong toàn bộ hiện hữu của y, trong chính lối sống của y. Đối với người có tôn giáo, cuộc sống không phải là thứ “được ban cho”, chẳng có ý nghĩa nào khác ngoài chuyện ăn uống, sống còn, vui chơi, và tham gia các sự kiện phù hợp với các ý niệm đạo đức của y. Y cảm nhận được sự lưỡng phân hiện sinh sâu sắc đang phủ bóng trên cuộc sống: đó là được tự do, nhưng vẫn bị khuôn định; là tách rời, nhưng vẫn hợp nhất; là có đầy kiến thức, nhưng vẫn hoàn toàn dốt nát. Y phải chịu đau đớn khổ sở do cảm giác bị tách biệt. Hành động y hướng thẳng đến việc tìm cho ra giải pháp tối ưu cho các mâu thuẫn trên, dù ngay khi ấy y vẫn biết rõ chẳng có thứ giải pháp nào như thế; nhưng nếu không nỗ lực làm chuyện đó thì đời cũng thành ra vô nghĩa. Trong thực tế, chính điểm này đã tạo ra sự khác biệt giữa một bên là con người đạo đức và khoái lạc, với một bên là con người “có tôn giáo”.
Thay vì mềm lòng mà tiếp tục trình bày các ý tưởng về bản tính của kinh nghiệm tôn giáo, mà dù nó có đúng thì cũng vẫn còn thiếu sót, tôi sẽ chú tâm đến một hiện tượng xem ra sẽ làm cho vấn đề trở nên phù hợp một cách cụ thể với thời đại chúng ta. Hiện tượng tôi muốn nói đến chính là cuộc phục hưng nhân bản đang diễn ra trong giáo hội Công giáo La Mã và các nhánh Thệ Phản. Phong trào này, được giáo hoàng John XXIII khuyến khích, đã dẫn đến một cuộc đối thoại mới, không chỉ giữa các tín hữu Công giáo với các tín hữu Thệ Phản, mà còn giữa các nhà nhân bản hữu thần với giới nhân bản vô thần. Cuộc đối thoại này không đặt nền trên chuyện các bên phải từ bỏ các khái niệm tư tưởng hữu thần hay vô thần của mình. Nhưng nó ngụ ý các bên phải thừa nhận rằng, ngoài những gì con người ý thức được thì vẫn còn tồn tại chiều kích khác - là những gì con người cảm nhận. Kinh nghiệm nội tâm này hầu như không thể được diễn tả bằng lời, nhưng bất cứ ai đã có được kinh nghiệm này đều biết rằng cái họ cùng có còn nhiều hơn cả cái chia cách họ do các khác biệt trong tư tưởng.
Teilhard de Chardin, Hans Kung và Karl Rahner chỉ là một số ít giữa những người đại diện cho chủ nghĩa nhân bản tiến bộ này. Sự phát triển tương tự cũng diễn ra giữa lòng các nhóm Thệ Phản dưới một hình thức còn triệt để hơn. Lập trường ấy trong mấy năm gần đây đã được nhiều người nhìn nhận dưới khái niệm “Ki-tô giáo vô thần”. Dietrich Bonnhoefer, Karl Bultmann, và còn có cả Paul Tillich, là những cái tên đại diện cho chủ nghĩa nhân bản cấp tiến trong các nhánh Thệ Phản.
Có lẽ không gì có thể biểu đạt được tinh thần loại chủ nghĩa nhân bản này tốt hơn câu nói sau đây của Abbé Pire: “Điều quan trọng không phải là sự khác biệt giữa kẻ tin và kẻ không tin, mà là giữa người quan tâm và người không quan tâm”.
Thành phố Mexico,
Tháng Ba năm 1967
Erich Fromm
Mục lục
LỜI GIỚI THIỆU
LỜI TỰA I
LỜI TỰA II
Chương 1: VẤN ĐỀ
Chương 2: FREUD VÀ JUNG
Chương 3: PHÂN TÍCH VÀI ĐIỂN HÌNH KINH NGHIỆM TÔN GIÁO
Chương 4: NHÀ TÂM PHÂN HỌC NHƯ MỘT “Y SĨ CỦA LINH HỒN”
Chương 5: TÂM PHÂN HỌC LÀ MỘT ĐE DỌA CHO TÔN GIÁO?
2. Nghiên cứu Kinh Lăng-già
Một trong những kinh văn quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa, trong ấy hầu như tất cả các tôn chỉ chính yếu được trình bày, kể cả giáo lý Thiền.
Kinh Lăng-già là một trong các kinh văn Đại Thừa quan trọng nhất, và Phật giáo Nepal xem kinh này là một trong chín kinh điển. Kinh này hàm chứa hầu hết các ý niệm chính, cả mặt triết học và thần học của Phật giáo Đại Thừa. Duy Thức Tông (Yogācāra) của Đại Thừa xem kinh này là kinh văn nền tảng, bởi vì kinh hàm chứa tất cả các ý niệm của duy tâm luận, như Duy-Tâm, tàng thức, làm thành căn bản triết học của tông này.
Bởi vì kinh văn cô đọng, khó hiểu và phức tạp về cách trình bày các ý niệm, tác giả cố gắng hết sức giải thích các ý niệm căn bản của Kinh Lăng-già trong bối cảnh của sự phát triển lịch sử của Phật giáo, mà tuyệt đỉnh là sự xuất hiện của Đại Thừa. Trong phần thứ nhất của sách tác giả đưa ra một nghiên cứu văn bản về kinh trong bối cảnh của nhiều bản dịch thực hiện ở Trung Quốc. Đồng thời tác giả cũng có vạch ra ảnh hưởng của kinh này đối với Phật giáo Trung Quốc và Nhật Bản, nhất là đối với Thiền. Trong phần còn lại của sách, tác giả chuyên chú vào việc giải thích các ý niệm triết học phức tạp tìm thấy trong kinh, và cách mà các ý niệm này được sử dụng bởi nhiều tông phái Phật giáo.
Tác giả cũng vạch ra liên hệ mật thiết hiện hữu giữa Kinh Lăng-già và Phật giáo Thiền. Mặc dù không phải chuyên nhất là một kinh văn Thiền, ảnh hưởng của kinh đối với Thiền không thể nào chối bỏ được. Các ý niệm không liên hệ đến Thiền trong kinh, đặc biệt là các ý niệm thuộc về Duy Thức Tông, cũng được thảo luận bởi tác giả trong phần thứ ba của sách.
Mục lục
NGHIÊN CỨU KINH LĂNG-GIÀ
TỰA CỦA DỊCH GIẢ
LỜI TỰA CỦA TÁC GIẢ
PHẦN I: DẪN NHẬP NGHIÊN CỨU KINH LĂNG-GIÀ
CHƯƠNG 1: CÁC BẢN DỊCH TRUNG VĂN VÀ TẠNG VĂN
CHƯƠNG 2: SO SÁNH NỘI DUNG CỦA BA BẢN DỊCH TRUNG VĂN, MỘT BẢN DỊCH TẠNG VĂN VÀ MỘT NGUYÊN BẢN PHẠN VĂN
CHƯƠNG 3: CÁC VÍ DỤ VỀ DỊ BIỆT GIỮA CÁC VĂN BẢN
CHƯƠNG 4: NGHIÊN CỨU THÊM VỀ KINH VÀ CÁC LIÊN HỆ NỘI TẠI CỦA KINH
CHƯƠNG 5: KINH LĂNG-GIÀ VÀ BỒ-ĐỀ-ĐẠT-MA, SÁNG TỔ CỦA PHẬT GIÁO THIỀN Ở TRUNG QUỐC
CHƯƠNG 6: NGHIÊN CỨU KINH LĂNG-GIÀ SAU BỒ-ĐỀ-ĐẠT-MA Ở TRUNG QUỐC VÀ NHẬT BẢN
CHƯƠNG 7: CHƯƠNG DẪN NHẬP CỦA KINH LĂNG-GIÀ
PHẦN II: KINH LĂNG-GIÀ VÀ GIÁO LÝ PHẬT GIÁO THIỀN
GHI CHÚ SƠ KHỞI
CHƯƠNG 8: MỘT TỔNG QUAN VỀ CÁC KHÁI NIỆM CHÍNH GIẢI THÍCH TRONG KINH
1. Tầm vóc của Phật giáo Đại Thừa
2. Giáo lý của Kinh Lăng-già
3. Tầm quan trọng cực kỳ của nội chứng
4. Kinh nghiệm nội tâm và ngôn ngữ
5. Các phức tạp tai hại phát sinh từ Phân biệt
6. Ý nghĩa của Yathābhūtam và Māyā
7. Vô Sinh có nghĩa là gì?
8. Nirvāṇa được giải thích như thế nào?
9. Yếu tính của Phật tính
10. Xuất Thế Gian Trí
11. Giáo lý Tam Thân
12. Xuất Thế Gian Trí và nguyên nhân tối sơ
13. Ngụ ngôn về cát sông Hằng
CHƯƠNG 9: NỘI DUNG TRÍ THỨC CỦA KINH NGHIỆM PHẬT GIÁO
1. Ngũ Pháp
2. Ba loại tự tính
3. Hai loại trí
4. Lý thuyết Nhị Vô Ngã
CHƯƠNG 10: TÂM LÝ LUẬN CỦA KINH NGHIỆM PHẬT GIÁO
1. Giáo lý Duy Tâm
2. Giải thích các từ quan trọng
3 Lý thuyết Duy Tâm
4. Sự chuyển hóa của hệ thống Thức
5. Ba thể cách của Thức
6. Các tác năng của Bát Thức
7. Tác năng của Mạt-na
8. Sự thức tỉnh của Bát-nhã
CHƯƠNG 11: ĐỜI SỐNG VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA MỘT BỒ-TÁT
1. Kỷ luật tự thân và Gia trì (Adiṣṭhāna)
2. Thanh Tịnh Hóa (Viśuddhi) Tâm
3. Ý Sinh Thân (Manomayakāya)
4. Bồ-tát và đời sống xã hội
5. Bồ-tát không bao giờ nhập Niết-bàn
6. Các nguyện của Bồ-tát và các hoạt động vô nỗ lực
7. Thập nguyện của Bồ-tát Samantabhadra (Phổ Hiền)
PHẦN III: MỘT SỐ LÝ THUYẾT QUAN TRỌNG GIẢI THÍCH TRONG KINH LĂNG-GIÀ
CHƯƠNG 12: GIÁO LÝ “DUY TÂM” (Cittamātra)
1. Một trong các lý thuyết chính của Kinh
2. Các đoạn trích dẫn liên hệ với Giáo lý
3. Tâm (Citta) và Chuyển hóa
4. Citta (Tâm), Ālayavijñāna (A-lại-da Thức) và Ātman (Ngã)
5. Hư vọng phân biệt, Vô sinh và Duyên khởi
6. Bằng cớ của “Duy Tâm”
7. Vài nhận định kết thúc
CHƯƠNG 13: KHÁI NIỆM VÔ SINH (Anutpāda)
1. Kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa và Kinh Lăng-già
2. Vô Sinh (Anutpāda) có nghĩa là gì?
3. Khái niệm của Phật giáo về Bất Tử
4. Vô Sinh có nghĩa là siêu việt Tương đối tính
5. Vô Sinh, Chân lý Siêu việt và Thường hằng Bất khả tư nghị
6. Khái niệm tích cực trong Vô Sinh
CHƯƠNG 14: TAM THÂN CỦA PHẬT
1. Đại cương Giáo lý
2. Kinh Kim Quang Minh về Tam Thân
3. Pháp Thân trong Kinh Lăng-già
4. Chưa có Tam Thân, mà chỉ có một Phật Tam Vị
5. Đẳng Lưu (Niṣyanda) và Biến Hóa (Nirmāṇa) Phật
6. Vipāka Buddha (Dị Thục Phật/Báo Phật)
7. Tam Thân trong Đại Thừa Khởi Tín Luận
CHƯƠNG 15: TATHĀGATA (NHƯ LAI)
CHƯƠNG 16: CÁC CHỦ ĐỀ THỨ YẾU
1. Nhất Thừa (Ekayāna)
2. Ngũ Vô Gián Nghiệp
3. Lục Ba-la-mật (Pāramitā)
4. Tứ Thiền
5. Thực Nhục (Māṁsabhakṣaṇa)
TỪ VỰNG: PHẠN VĂN - TRUNG VĂN - VIỆT VĂN
Sản phẩm thường được mua cùng
Sản phẩm đã xem
Để lại lời nhắn cho chúng tôi
Đăng kí thông tin thành công
Cảm ơn bạn đã để lại thông tin
Chúng tôi sẽ liên hệ với bạn trong thời gian sớm nhất
Thông báo sẽ tự động tắt sau 5 giây...