Năm bài giảng về "Ý niệm hiện tượng học" (1907) có vị trí đặc biệt như là văn bản xác lập triết học Husserl, nơi triển khai lần đầu tiên khái niệm “quy giản hiện tượng học”, đặt cơ sở mới mẻ cho triết học như là một “khoa học nghiêm ngặt”.
“Nếu không làm sáng tỏ được về đại thể ý nghĩa, bản chất, phương pháp và các giác độ chủ yếu của công cuộc phê phán lý tính, nếu không suy nghĩ chín chắn, không phác thảo, khẳng định và đặt cơ sở được cho một dự án như thế thì tôi không thể sống một cách đúng thật và chân thật. Tôi đã nếm trải đủ sự dày vò đau khổ vì sự không rõ ràng, vì nỗi hoài nghi dao động. Tôi phải đi tới một sự kiên định về nội tâm. Tôi biết rằng đây là chuyện đại sự và là tối đại vấn đề; tôi biết rằng bao nhiêu bậc thiên tài vĩ đại đã thất bại, và nếu muốn sánh vai cùng họ, tôi ắt phải tuyệt vọng ngay từ đầu…” (Edmund Husserl, 1906)
Trong Năm bài giảng, lần đầu tiên Husserl phát biểu công khai các tư tưởng sẽ xác định toàn bộ tư duy của ông về sau. Chính trong chúng, ông không chỉ trình bày rõ ràng về sự quy giản hiện tượng học mà cả tư tưởng cơ bản về sự cấu tạo nên các đối tượng ở trong ý thức.
“Chỉ có sự quy giản hiện tượng học mới bảo đảm dứt khoát cho lĩnh vực của những gì được mang lại một cách nội tại tuyệt đối.”
Thông tin tác giả
Edmund Gustav Albrecht Husserl (Sinh ngày 8, tháng Tư năm 1859 tại Prostějov, Moravia, nước Áo, chết ngày 26 tháng Tư, năm 1938 tại Freiburg, nước Đức) là một nhà triết học và toán học, được coi là cha đẻ của Hiện tượng học. Ông là người đột phá vào định hướng thực chứng khoa học và triết học trong thời đại của mình, và ông còn là người kiến tạo các phê phán duy sử luận và tâm lý luận về phương diện logic. Không giới hạn vào chủ nghĩa kinh nghiệm, nhưng lại tin tưởng rằng kinh nghiệm là cội nguồn của toàn bộ tri thức, ông đã xây dựng phương pháp quy giản hiện tượng học bằng quan niệm cho rằng một chủ thể hoàn toàn có thể nhận thức được một cách trực tiếp một bản chất.
Mặc dù sinh ra trong một gia đình Do Thái, nhưng Husserl lại chịu lễ rửa tội để theo Tin lành Luther năm 1886. Ông nghiên cứu toán học với Karl Weierstrass và Leo Königsberger, nghiên cứu triết học với Franz Brentano và Carl Stumpf. Bản thân ông đã giảng dạy triết học ở Halle từ năm 1887, sau đó là giáo sư triết ở Göttingen năm 1901, và ở Freiburg từ năm 1916 đến khi nghỉ hưu năm 1928. Sau đó ông đã đọc một số bài giảng tại Paris năm 1929, và ở Prague năm 1935. Đạo luật phân biệt chủng tộc khét tiếng của Đức Quốc xã đã gạt ông ra khỏi mọi cương vị và đặc quyền Hàn lâm, và ông mất tại Freiburg năm 1938.